thông tin cơ bản về cây hoa mai
Cây mai thuộc họ Ochnaceae, có tên khoa học Ochna integerima còn được gọi là cây hoàng mai, rất được ưa thích vào ngày Tết cổ truyền ở miền Nam Việt Nam.
Tại Việt Nam, loài này phân bố đột nhiên nhiều nhất tại những khu rừng thuộc dãy Trường Sơn và các tỉnh giấc trong khoảng Quảng Nam, Đà Nẵng cho tới Khánh Hòa. Loài hoa này cũng có đa dạng tại các vùng núi ở đồng bằng sông Cửu Long, và tại cao nguyên cũng có, song số lượng ít hơn.

Ngoài tự nhiên, cây mai khủng tự rụng lá vào mùa Đông và ra hoa vào mùa Xuân.
Là cây đa niên, có thể sống trên một trăm năm, gốc lớn rễ lồi lõm, thân xù xì, cành nhánh phổ quát, lá mọc xen. Ngoài trùng hợp, cây mai tự rụng lá vào mùa Đông và ra hoa vào mùa Xuân. Chính vì thế, tiên sư chúng ta đã lảy hết lá vào tháng chạp âm lịch, để kích thích cho cây mai ra hoa rộ vào dịp tết Nguyên đán.
Đặc điểm của cây hoa mai
Có thân cứng, cành giòn, lá nhỏ, hoa lớn và phẳng, lâu tàn. Mai có dáng vẻ thanh cao. Thân cây mềm mại, lá xanh biếc dịu dàng, hoa tuoi rực rỡ…
tạo thành của cây hoa mai
1. Rễ cây mai vàng
Bộ rễ mai vàng có thể đâm sâu hai – 3 m. Sự phân bố của bộ rễ phụ thuộc vào thuộc tính đất, mực nước ngầm nơi trồng, hình thức nhân giống như gieo hạt, chiết cành, ghép và điều kiện phương pháp chăm sóc.
hai. Thân cây mai vàng
Là cây thân gỗ cao to nếu để mọc và sinh trưởng tự do, cây mọc từ hạt có thể cao đến 20 – 30 m, tán lá thưa.
3. Lá cây mai vàng
Lá đơn, mọc so le, phiến lá hình trứng thuôn dài, mặt dưới màu khá ánh vàng.
4. Hoa mai vàng
Hoa lưỡng tính mọc thành chùm. Hoa mai thường mọc ra từ nách lá, mới đầu là một hoa lớn, gọi là hoa cái, có vỏ lụa (vỏ trấu) bọc bên ngoài.

Hoa mai thường mọc ra từ nách lá.
khi vỏ lụa bung ra, thì xuất hiện một chùm hoa con, trong khoảng một nụ đến mười nụ, vững mạnh rất nhanh, độ bảy ngày sau là nở.Thường hoa nở 3 ngày thì tàn. Ngày thứ nhất, 5 cánh và chùm nhụy xoè thẳng ra rất đẹp. Ngày thứ 2, 5 cánh vảnh lên và chùm nhụy dụm lại. Qua tới ngày thứ ba, 5 cánh bắt đầu rơi lả tả theo chiều gió, hoa tàn
5. Quả mai vàng
Sau khi tàn, hoa nào đậu thì bầu noãn phình lớn lên và kết hạt.
Đọc thêm: Hướng dẫn bạn cach cho mai nhanh lon
công dụng của hoa mai đối với đời sống
Theo dược học cựu truyền, hoa mai thường được sử dụng để chữa các chứng bệnh như sốt cao phiền khát, tức ngực, ho, hầu họng sưng đau, bỏng, lao hạch, chán ăn, chóng mặt…
Tết tới xuân về, dẫu tiết trời giá rét, hoa mai vẫn nở trắng một màu như tuyết. Ở vùng cao, mai mọc thành rừng, nên tới mùa hoa mai nở, từng mảng trắng xóa xen giữa màu xanh của rừng núi tạo nên cảnh sắc trông thật trữ tình. Thi nhân yêu hoa mai đành rằng, người bác sĩ cũng mến chuộng loài hoa này.
Theo dược học cựu truyền, hoa mai vị ngọt khá đắng, tính ấm, không độc...
Trong thành phần hóa học, hoa mai chứa phổ thông tinh dầu như cineole, borneol, linalool, benzyl alcohol, farnesol, terpineol, indol… và một vài chất khác như meratin, calycanthine, caroten… Nghiên cứu hiện đại, tiên tiến cho thấy, hoa mai có tác dụng kích thích bài xuất dịch mật, ức chế một vài loại vi khuẩn như coli, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn thương hàn, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn lao…
Theo dược khoa cổ truyền, hoa mai vị ngọt tương đối đắng, tính ấm, không độc, có công dụng giải thử sinh tân, khai vị tán uất, hóa đàm, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như sốt cao phiền khát, tức ngực, ho, hầu họng sưng đau, bỏng, lao hạch, chán ăn, chóng mặt… Các y thư cổ như Bản thảo cương mục, Bản thảo nguyên thủy, Bách thảo kính, Bản thảo tái tân, Cương mục thập di, Thực vật nghi kỵ… đều đã ghi lại nhiều phương thuốc có sử dụng hoa mai với những kiến giải hơi sâu sắc. Có thể dẫn ra một vài ví dụ cụ thể như sau:
Trúng thử gây tâm phiền, đau dầu, chóng mặt: (1) Hoa mai 9g sắc uống hoặc kết hợp hoa mai với hoa biển đậu và lá sen tươi lượng vừa đủ, sắc uống. (2) Hoa mai 15g, hoa cúc trắng 15g, hoa hồng 15g, hãm uống thay trà.
cải thiện áp huyết, cơn đau thắt ngực: Hoa mai 3g, thảo quyết minh 10g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 35phút thì sử dụng được, uống thay trà trong ngày.
Mai hạch khí, đau bao tử, viêm gan và xơ gan mức độ nhẹ: Hoa mai 5g đem ninh với 100g gạo tẻ thành cháo, chế thêm các con phố trắng, chia ăn vài lần trong ngày. Mai hạch khí là chứng nhận thấy trong họng có vật gì ấy gây bế tắc, thổ không ra, nuốt ko trôi nhưng ko gây chướng ngại cho việc ăn uống. Với chứng bệnh này người ta còn sử dụng hoa mai 12g, hoa quế 3g, trà 20g, ba thứ trộn đều, chia làm 3 lần hãm uống thay trà.
Chướng bụng, đầy hơi: Hoa mai 10g, mộc hương 10g, hương phụ 15g, sắc uống.
Đau bụng do lạnh: Hoa mai và chu sa liên lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột, uống mỗi lần 3 – 6g với rượu nhạt.
Nấc: Hoa mai 5g, tai hồng (thị đế) 5 cái, gừng tươi 3 lát, gạo tẻ 100g. Đem gừng tươi và thị đế sắc kỹ lấy nước, bỏ bã rồi cho gạo vào nấu thành cháo, lúc chín thì cho hoa mai vào, đun sôi vài dạo là được, chia ăn vài lần trong ngày.
Nôn: Hoa mai 5g, nước cốt gừng tươi 5ml. Đem hoa mai hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 35 phút là sử dụng được, chắt ra hòa thêm nước gừng tươi rồi uống, mỗi ngày sử dụng hai thang.
Viêm họng, viêm amydal cấp tính: (1) Hoa mai 6g, huyền sâm 9g, bản lam căn 9g, sắc uống. (2) Hoa mai 15g, kim ngân hoa 15g, thạch cao 15g, huyền sâm 9g, sắc uống. (3) Hoa mai 9g hãm với nước sôi trong bình kín, uống thay trà trong ngày.
Viêm họng mãn tính: (1) Hoa mai 6g, hoa dành dành 5g, trà 20g. Ba thứ trộn lẫn chia làm hai lần hãm với nước sôi uống thay trà, mỗi ngày 1 thang. (2) Hoa mai và hoa ngọc xoa lượng vừa đủ đem nấu với 60g gạo tẻ thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày, mỗi ngày 1 thang.
Ho dai dẳng: (1) Hoa mai 9g hãm uống thay trà trong ngày. (2) Hoa mai 10g, khoản đông hoa 10g, gạo tẻ 60g, phần đông đem ninh thành cháo, chế thêm một tí mật ong, chia ăn vài lần trong ngày.
Mất nước đa dạng do thử nhiệt gây phiền khát, tức ngực: Hoa mai 10g, lá sâm 10g, cam thảo 10g, mạch môn 15g, hoắc hương 6g, sắc uống.
Chứng chán ăn do thử nhiệt: Hoa mai 10g, lá sen 50g, hãm với nước sôi uống thay trà trong ngày.
Tức ngực, khó thở: Hoa mai 10g, đan sâm 10g, qua lâu 15g, sắc uống trong ngày.
Đau khớp do phong thấp: Hoa mai 9g, thạch nam đằng 9g, thố nhĩ phong 9g, đam ngâm với 200ml rượu, mỗi lần uống 30 – 50ml.
Viêm kết mạc cấp tính: Hoa mai 6g, cúc hoa 9g sắc kĩ rồi hòa thêm một tẹo mật ong uống.
tổn thương do trật đả: Hoa mai 9g, lá liễu 9g, quá sơn long 9g, đem ngâm với 250ml rượu trắng, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 50ml.
Vết thương chảy máu: Hoa mai 10g đem sao tồn tính rồi tán thành bột rắc vào vết thương.
Viêm loét môi và niêm mạc miệng: Hoa mai tươi lượng vừa đủ đem giã nát với đường trắng rồi vắt lấy nước bôi vào tổn thương.
Loa lịch (lao hạch): Hoa mai lượng vừa đủ, trứng gà 1 quả. Dùng dao nhọn chích một lỗ nhỏ ở quả trứng rồi nhét hoa mai vào trong, đem hấp cách thủy cho chín rồi ăn, mỗi ngày 1 lần, 7 lần là một liệu trình.
Viêm da lở loét: Hoa mai 6g đem ngâm với dầu lạc hoặc dầu vừng, sau hai tuần thì sử dụng được, bôi vào tổn thương mỗi ngày 2 lần.
Bỏng: Hoa mai lượng vừa đủ ngâm với dầu trà rồi bôi vào vùng bị bỏng.
Không chỉ vậy, trong ẩm thực cựu truyền, hình ảnh cây hoa mai còn được cổ nhân dùng như một loại thực phẩm để chế thành những món ăn có công dụng bổ dưỡng cường thân cùng với các loại thực phẩm khác như giết lợn, giết mổ dê, hải sâm, trứng gà, cá chép, nấm hương… tương tự, với vẻ đẹp thanh tao và hương thơm thanh khiết của mình, hoa mai không những có giá trị thẩm mỹ sâu sắc mà còn là một vị thuốc hay và một loại thực phẩm độc đáo.